Thảo quả

Tên tiếng Việt: Thảo quả, Mác hầu (Tày), Đò ho, Thảo đậu khấu

Tên khoa học: Amomum tsao-ko Crév. et Lem. (Amomum aromaticum Roxb. Amomum medium Lour.).

Họ: Zingiberaceae

Công dụng: Khử hàn, trừ đờm chữa ho, đau bụng, nôn, dễ tiêu, sốt rét, kích thích tiêu hóa, giải độc (Quả).

A. Mô tả cây

Thảo quả là một loại cỏ sống lâu năm, cao chừng 2,5-3m, thân rễ mọc ngang, to thô, có đốt, đường kính chừng 2,5-4cm, giữa có màu trắng nhạt, phía ngoài có màu hồng thơm, mẫm, rất chóng thành xơ, lá mọc so le, có lá có cuống ngắn, có lá không có cuống, bẹ lá có khía dọc, phiến lá dài 0,60-0,70m, rộng tới 0,20m, nhẵn, mặt trên có màu xanh sẫm, mặt dưới hơi mờ, mép nguyên. cụm hoa thành bông mọc từ gốc, dài chừng 13-20cm, hoa màu đỏ nhạt. quả từ 8 đến 17 trên mỗi bông, khi chín có màu đỏ nâu dài khoảng 3-4cm, đường kính 2-3cm, khi còn tươi mặt bóng nhẵn, vỏ ngoài dày 5mm. trong quả chia thành 3 ngăn, mỗi ngăn có chừng 7 hạt có áo hạt hình tháp ép vào nhau, rất thơm.

  • B. Phân bố, thu hái và chế biến

  • Thảo quả được trồng và mọc hoang ở những vùng khí hậu mát miền Bắc Việt Nam, chủ yếu tại Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu. còn thấy ở một số tỉnh Hoa Nam Trung Quốc (Quảng Tây, Vân Nam).
  • Cây thảo quả được đưa vào trồng ở Việt Nam vào khoảng năm 1890, từ các tỉnh biên giới Việt-Trung. người ta trồng thành rừng rộng, ở độ cao 1000-1.500m,diện tích hiện nay khoảng 700—800ha. thu hoạch vào các tháng 10-12, khả năng ước lượng khoảng 500 tấn mỗi năm. khi hái về người ta phơi trên phên thua và sấy lửa nhẹ luôn 3 hay 4 ngày đêm cho đến khi khô. khi quả thảo quả khô, màu sẽ ngả xám mâu nhạt, nhiều nát nhăn dọc và thường được phủ một lớp phấn trắng, mỗi quả cân nặng chừng 4g. khi sấy không nên để lửa quá già, vỏ có thể bị cháy sém mà trong ruột hạt chưa thật khô, dễ bị vụn. sau đó đóng bao,mỗi bao 50 đến 100kg. để nơi khô ráo.
  • Khi nào dùng mới bóc vỏ ngoài lấy hạt, nếu bóc lấy hạt ngay sẽ chòng mất mùi thơm.

C. Thành phần hoá học

  • Trong thảo quả có chừng 1-1,5% tinh dầu. tinh dầu màu vàng nhạt, mùi thơm ngọt, vị nồng cay dễ chịu (Đỗ Tất Lợi, 1957).
  • Năm 1989, Nguyễn Xuân Dũng và cộng sự đã nghiên cứu thấy trong tinh dầu thảo quả có các thành phần chủ yếu: 1-8 cineol (30.61%), trans-2 undecanal (17,33%), citral B (gernial)(10,57%), -terpineol (4,34%).

D. Công dụng và liều dùng

  • Thảo quả là một vị thuốc, đồng thời là một gia vị. thảo quả tường được dùng để thêm vào một số bánh kẹo, đặc biệt loại kẹo chè lam.
  • Trong thuốc, thảo quả chỉ mới thấy dùng trong phạm vi nhân dân. trong các sách cổ, người ta cho thảo quả có vị cay, chát, tính ôn và không độc, vào hai kinh tỳ và vị, có năng lực táo thấp, khử hàn, trừ đờm, chữa sốt rét, tiêu thực, hoá tích dùng làm thuốc kiện tỳ, giải độc , chữa đau bụng, nôn mửa, hơi mồm.
  • Liều dùng hàng ngày: 3 đến 6g dùng riêng hay phối hợp với nhiều vị thuốc khác, sác hay làm thành thuốc viên.
  • Theo đông y, phàm âm huyết không đủ mà không không hàn thấp thực tà không nên dùng.

Nam Y Dược Phú Tuệ trên Facebook tại đây

Nam Y dược Phú Tuệ ngoài hệ thống Phòng khám Chuyên khoa YHCT, còn chuyên nuôi trồng, thu hái, nhập khẩu, sơ/bào chế, sản xuất, kinh doanh dược liệu, vị thuốc Nam, vị thuốc YHCT, chế phẩm, thành phẩm, thuốc YHCT các dạng cao, đơn, hoàn, tán, nang, nén. Bảo đảm hiệu quả cao, chất lượng tốt, an toàn, đạt chuẩn TCVN, GMP – WHO, bào chế đúng phép theo Dược điển Việt Nam và quốc tế.

Quý vị có nhu cầu khám chữa bệnh, mua thuốc, vui lòng liên hệ theo thông tin đăng tải tại Website hoặc/và Tổng đài y khoa/Zalo: 09.115.51.115. Quan tâm Zalo OA tại đây

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.